Người phương Tây có thói quen đáng nể là cái gì họ cũng làm … nghiên cứu. Cái gì họ cũng “cân, đo, đong, đếm”. Mấy chục năm trước, đại học Úc bắt đầu cho sinh viên đánh giá giảng viên (một việc làm trước đó rất hiếm), và thế là hàng loạt nghiên cứu ra đời. Kết quả những nghiên cứu này cung cấp cho chúng ta nhiều dữ liệu thú vị, nhất là những yếu tố để phân biệt một “good lecturer” với một “bad lecturer”. Thiết tưởng những yếu tố này cũng mang tính thời sự, nên tôi liệt kê ra đây vài đặc điểm để tham khảo.
Phong cách giảng bài
Các chuyên gia sư phạm phân biệt 3 phong cách giảng dạy: nhà tư tưởng (thinker), thuyết khách (talker), và người thợ (doer). Cách phân biệt này cũng tương ứng với 3 giai cấp nhà khoa học. Có những nhà khoa học có uy tín cao, chỉ chuyên đề ra tư tưởng, ý tưởng mới. Họ là những nhà trí thức, những học giả “thứ thiệt”, có ảnh hưởng lớn đến chuyên ngành. Hạng nhà khoa học bậc hai là những người cũng có uy tín cao, nhưng chưa ở bậc nhà tư tưởng, mà mới ở mức độ nói chuyện, thuyết khách. Họ cũng là những trí thức, cũng có ảnh hưởng, nhưng mức độ ảnh hưởng không bằng những thinker. Hạng khoa học gia thứ ba có thể nói nôm na là doer – những người thực sự làm. Có thể phân biệt phong cách giảng theo mô hình 3 loại nhà khoa học trên.
Phong cách giảng bài của nhà tư tưởng là trình bày thông tin và dữ liệu theo bối cảnh thường hàm chứa một lương thông tin lớn trong thời lượng cho phép, và mức độ tương tác giữa giảng viên và sinh viên rất ít. Bài giảng dạng này thường mang tính tổng quan, và giảng viên phải có kiến thức rộng để có thể đi ra ngoài nội dung chính của bài giảng, nhưng vẫn có thể dẫn dắt sinh viên xoáy vào mục tiêu của bài giảng. Cách giảng của vị giáo sư già tôi đề cập trên thuộc dạng này, ông thấy nhiệm vụ của ông là chỉ mượn bài giảng để truyền đạt ý tưởng lớn (big idea), big science, và định hướng để sinh viên tự mình tham khảo và nghiên cứu thêm. Phong cách này thường thấy ở những người có trình độ cao, thường là cấp giáo sư có tầm cỡ quốc tế.
Bài giảng của những thuyết khách dựa vào nội dung thường bám sát nội dung, giảng viên ít đi ra ngoài nội dung bài giảng. Giảng viên thường giới thiệu công trình nghiên cứu của họ và của đồng nghiệp trong cùng chủ đề. Trong giới y khoa, chúng ta rất thường thấy các “thuyết khách” trong các seminar và symposium. Có người nói đùa họ là những người “tiếp thị” công trình nghiên cứu của họ và cố gắng gây ảnh hưởng qua những công trình đó. Các thuyết khách cũng ít tương tác với học viên, nhưng họ thường thân thiện hơn so với những thinker.
Bài giảng mang tính sư phạm được thiết kế để giúp sinh viên có thể ứng dụng kiến thức trong bài giảng. Bài giảng dạng này thường được soạn để sinh viên có thể thực hành và có mức độ tương tác cao với giảng viên. Bài giảng dạng sư phạm thích hợp cho những hướng dẫn mang tính kĩ thuật mà sinh viên có thể sử dụng ngay sau khi dự xong bài giảng. Có khi người ta xem người giảng bài theo phong cách này là thợ giảng. Thợ giảng có thể giảng bài mà người khác soạn cho mình (chứ mình không tự soạn ra).
Do đó, tuỳ theo mục tiêu của lớp học hay seminar, mà giảng viên có thể soạn bài giảng với phong cách thích hợp. Nếu là một buổi giảng cho các chuyên gia hay những người đã có kiến thức chuyên ngành, tôi nghĩ phong cách giảng bối cảnh sẽ hào hứng và thích hợp. Nếu buổi giảng là một semianr về một chủ đề cụ thể thì cách giảng theo nội dung có thể thích hợp. Nếu là workshop, đòi hỏi sự tương tác giữa giảng viên và học viên, thì có lẽ nên chọn cách giảng thứ ba, tức là phong cách sư phạm.
Những đặc điểm của một giảng viên tốt
Phong cách giảng nào được đánh giá cao còn tuỳ thuộc vào thành phần học viên. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy sinh viên thường thích phong cách giảng mang tính sư phạm. Còn bài giảng theo phong cách thuyết khách và nhà tư tưởng thường được đánh giá thấp nhất. Nhưng trong các hội nghị khoa học, người ta đánh giá cao những bài giảng theo phong cách thuyết khách hơn là những bài giảng theo phong cách nhà tư tưởng hay phong cách thợ giảng (sư phạm).
Câu hỏi đặt ra là thế nào là một giảng viên tốt? Nhiều nghiên cứu trong quá khứ đúc kết lại một số đặc điểm chính như sau: phong cách, thiết kế bài giảng, tương tác, và sư phạm
Phong cách
Trình bày nội dung một cách thú vị;
Ứng xử như là một tấm gương về học thuật;
Triển khai từ kiến thức hiện hành của sinh viên.
Thiết kế bài giảng
Giải thích rõ ràng;
Nội dung được cấu trúc một cách logic;
Tóm lược từng phần trong bài giảng.
Tương tác
Kích thích sự quan tâm và tò mò của sinh viên;
Dành thời gian cho sinh viên ghi chép ;
Sử dụng ví dụ có liên quan đến sinh viên;
Khuyến khích học tập một cách độc lập;
Tương tác với sinh viên;
Thách thức tầm nhìn của sinh viên;
Tỏ ra nhiệt tình về chủ đề mình giảng.
Sư phạm – giảng viên nên:
Tỏ ra mình là bậc thầy về đề tài mình giảng;
Cung cấp những nghiên cứu mới nhất;
Có kĩ năng nói chuyện trước đám đông;
Không nên dùng những từ ngữ mang tính phân biệt chủng tộc và phân biệt giới tính;
Sử dụng từ ngữ chính xác;
Sử dụng các ví dụ và diễn giải ví dụ.
Một vài điểm cần chú ý khi soạn bài giảng bằng PowerPoint
1. Cần phải biết cử toạ là ai. Đây có lẽ là điều quan trọng nhất trong một bài giảng, nhất là giảng trong seminar. Tôi đã từng chứng kiến một seminar dành cho các chuyên gia (experts) mà diễn giả trình bày toàn những thông tin chỉ thích hợp cho sinh viên năm thứ hai hay năm thứ ba, làm cho nhiều người trong khán phòng rất khó chịu. Biết cử toạ là ai để soạn bài giảng thích hợp là điều mà giảng viên hay diễn giả cần phải tìm hiểu trước khi soạn bài giảng.
2. Cân đối thời lượng và thông tin. Mỗi slide chỉ nên giới hạn trong vòng 1 phút. Nếu trong vòng 20 giấy đầu tiên mà khán giả không hiểu hay không lĩnh hội được thì slide đó xem như thất bại. Ấy thế mà trong thực tế, tôi đã thấy giảng viên nhồi nhét cả 70 slides cho một bài giảng 20 phút! Trong tình huống đó, không ngạc nhiên khi giảng viên quá giờ, và nói quá giờ là một mất lịch sự khó tha thứ được.
3. Tránh phương trình, kí hiệu. Phương trình và kí hiệu phức tạp có lẽ là điều làm nhiều người “sợ” nhất. Ngay cả những ngành liên quan đến toán học, người giảng có kinh nghiệm ít khi nào dùng đến phương trình trong bài giảng; thay vào đó là những ý tưởng và phác hoạ ý tưởng cho một phương trình (không có trong bài giảng). Dĩ nhiên, trong vài trường hợp, phương trình cũng cần thiết, nhưng qui tắc chung là nên giữa ở mức độ tối thiểu.
4. Không nên viết nguyên câu văn. Giảng bài mà viết nguyên câu văn là tự tử! Thiếu chuyên nghiệp. Một qui tắc bất thành văn trong soạn bài giảng bằng PowerPoint là viết theo dạng telegraphic, tức như những tiêu đề của một bản tin. Không bao giờ viết nguyên văn với câu cú theo qui tắc văn phạm. Nên nhớ rằng mục tiêu là để sinh viên nghe, chứ không phải đọc. Nếu slide có quá nhiều câu chữ, người ta sẽ đọc chứ không nghe giảng viên, và do đó bài giảng sẽ thất bại, không đạt mục tiêu.
5. Giải thích những biểu đồ. Bất cứ lúc nào giảng viên trình bày một biểu đồ, giảng viên cần phải giải thích những kí hiệu, trục tung, trục hoành, v.v. có nghĩa gì. Sau khi giải thích xong, giảng viên có thể nói về ý nghĩa của biểu đồ. Nếu khán giả không hiểu những kí hiệu trong biểu đồ, tất cả những gì giảng viên nói sẽ “mất hút” vào không khí, vì chẳng ai hiểu được và có lẽ cũng không cần hiểu!
6. Nên chọn màu cẩn thận. Không nên chọn màu nền quá màu mè. Nếu phòng rộng, nên chọn màu nền màu đậm (xanh nước biển) và text màu sáng (như màu trắng, vàng). Nếu phòng nhỏ, nên chọn màu nền sáng (trắng) và text màu tối đậm (đen). Tuyệt đối tránh nền màu xanh, text màu đỏ; nền màu xanh lá cây, text màu vàng.
7. Tránh hình hoạt hoạ. Một bài giảng là mang tính học thuật, chứ không phải trò chơi của trẻ con. Phải tỏ ra nghiêm chỉnh, không dùng hoạt hình, hoặc nếu dùng thì phải giữ ở mức tối thiểu.
Lược trích từ nguyenvantuan.net
0 comments:
Post a Comment