"Trí tuệ giàu lên nhờ cái nó nhận được,con tim giàu lên nhờ cái nó cho đi" - Victor Hugo.You can make a living by what you get, but you can make a life by what you give- Winston Churchill

Tuesday, December 27, 2011

Let See What You Do?

Mục tiêu cụ thể việc triển khai đề án ngoại ngữ 2020 trong các trường ĐH giai đoạn 2011-2020:

- Đối với các ngành học không chuyên ngữ, sau khi tốt nghiệp sinh viên phải đạt trình độ tối thiểu bậc 3 theo khung năng lực ngoại ngữ; đối với các ngành chuyên ngữ, sinh viên tốt nghiệp CĐ phải đạt trình độ bậc 4, tốt nghiệp ĐH phải đạt trình độ bậc 5 đồng thời được đào tạo ngoại ngữ 2 đạt trình độ bậc 3 khung năng lực ngoại ngữ.

- Triển khai chương trình đào tạo tăng cường môn ngoại ngữ cho khoảng 10% số sinh viên CĐ, ĐH vào năm 2011-2012; 60% vào năm 2015-2016 và 100% vào năm 2019-2020.

- Đến năm 2015, 100% đội ngũ giảng viên ngoại ngữ được đào tạo, bồi dưỡng cả về trình độ chuyên môn lẫn nghiệp vụ sư phạm.

- Đến năm 2020, 100% giảng viên ngoại ngữ của các cơ sở giáo dục ĐH đã được thi tham quan, học tập, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ ở các nước có bản ngữ hoặc ngôn ngữ quốc gia phù hợp với ngoại ngữ đang dạy cho sinh viên.

- Đến năm 2015, 100% các cơ sở giáo dục ĐH đều có các phòng học tiếng nước ngoài, có phòng nghe nhìn, phòng đa phương tiện và có các trang thiết bị thiết yếu đảm bảo đáp ứng cho việc dạy và học ngoại ngữ.

Saturday, December 24, 2011

Flash Light - Tin hieu moi chang?

DĐM: Tín hiệu mới của Bộ GD chăng? Phải ghi ngay lại đoạn đo đỏ bôi đậm phía dưới cùng, gì thì gì cứ phải "mách có chứng" :) Nhỡ nó hạ bài nên lưu cache tại đây: http://www.baomoi.com/Chua-benh-cam-va-diec-tieng-Anh-sau-16-nam-hoc/59/7601406.epi


">Ông Nguyễn Ngọc Hùng, Trưởng Bộ phận thường trực Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020 (Bộ GD-ĐT) cho biết thông tin trên tại hội thảo triển khai đề án dạy và học ngoại ngữ trong các trường ĐH giai đoạn 2011 tổ chức sáng 23/12. Từ kinh nghiệm dự giờ, ông Hùng khái quát "cách học ngoại ngữ ở các trường vẫn theo lối truyền thống. Nghĩa là dạy nhiều nên phải hy sinh phần nói, thậm chí quá chú trọng đến văn bản. Do đó dù học sinh được trang bị 900 tiếng Anh ở phổ thông và 200 tiết tiếng Anh ở ĐH nhưng ra trường vẫn "câm và điếc"."

Đồng quan điểm, phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp (ĐH Thái Nguyên) Vũ Ngọc Pi đề xuất, nên có lộ trình cụ thể, hợp lí đối với việc đào tạo năng lực tiếng Anh cho SV và giảng viên. Cùng với đó, đội ngũ giảng viên tiếng Anh cần được đi học tập tại các nước nói tiếng Anh. Chú trọng bồi dưỡng khả năng nghe nói cho sinh viên và giảng viên..."Ông Pi cũng cho hay, để nâng chất lượng dạy và học tiếng Anh nhà trường rất chú trọng ngay từ khâu tuyển dụng. Nhiều năm nay trường tuyển giáo viên tiếng Anh phải tốt nghiệp chính quy và bằng phải từ khá trở lên...Tuy nhiên, đến nay trường vẫn chưa có giáo viên nào được đi nước ngoài đào tạo mà mới dừng ở việc đi thăm quan, du lịch nên hiệu quả chưa được cọ sát. Đội ngũ giáo viên dạy tiếng Anh còn thiếu.

Bà Lê Hương cho biết, năm 2012-2015 Cục Đào tạo và hợp tác với nước ngoài sẽ tổ chức bồ dưỡng cho 60% giảng viên ngoại ngữ đi học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ ngắn hạn và dài hạn ở nước ngoài. 40% giảng viên còn lại được đưa đi bồi dưỡng vào năm 2016-2020

Wednesday, December 14, 2011

Descriptive Statistic, Cross Tabulation, Chi-square with Pivot Table in Excel

Dương Đức Minh: Như đã nói trong bài trước, nếu dùng SPSS thì nhanh, chi tiết và OK rồi nhưng quả thật (mình hỏi khắp rồi, ít người biết, biết không sâu về SPSS ở TN) với Excel ta cũng có thể làm công việc tương tự tuy hơi rắc rối hơn 1 chút nhưng bớt được khoản nhập số liệu, define, compute, code, recode ... so với SPSS. Xin giới thiệu bài viết của anh (chị) Nguyễn Văn Chức đăng trên bis.net
Phân tích dữ liệu với PivotTable trong Excel

Thống kê là nền tảng của khai phá dữ liệu. Vì vậy, hiểu và triển khai được một dự án phân tích dữ liệu thống kê là rất cần thiết và sẽ giúp ích rất nhiều trong quá trình xây dựng các mô hình khai phá dữ liệu phức tạp. Bài viết này nhằm giúp các bạn từng bước triển khai phân tích dữ liệu có được thông qua điều tra bằng bảng câu hỏi (Questionnaires). Bạn không cần phải là chuyên gia về phân tích dữ liệu hay thống kê. Các khái niệm về thống kê và qui trình thực hiện một nghiên cứu thống kê đơn giản như thu thập dữ liệu, mã hóa dữ liệu, phân tích dữ liệu được mô tả từng bước một cách chi tiết bằng MS Excel.

Bài viết trình bày các bước của một nghiên cứu phân tích dữ liệu từ xây dựng dữ liệu mẫu và câu hỏi nghiên cứu, mã hóa dữ liệu, các phân tích đơn giản với thống kê mô tả (Descriptive Statistic) đến các phân tích phức tạp hơn dựa vào Cross tabulation (Pivot Table), kiểm định giả thuyết (Chi-square test).

1. Dữ liệu mẫu và câu hỏi nghiên cứu (Data Example & Research Questions)

Để dễ hình dung, chúng ta bắt đầu với bảng câu hỏi đơn giản gồm 6 câu hỏi liên quan đến khách đến giải trí tại công viên ABC nhằm phân tích, đánh giá mức độ hài lòng của khách với các dịch vụ của công viên ABC. Sau đây là ý nghĩa của các biến sử dụng trong nghiên cứu:

· Family (Gia đình): Đáp viên, đối tượng trả lời câu hỏi, khách.

· Time(thời gian): Thời gian hoạt động của gia đình trong công viên. Tính bằng phút và có kiểu dữ liệu định lượng (quantitative)

· Mode: Loại hình phương tiện mà khách (gia đình) lựa chọn đi đến công viên. Có kiểu dữ liệu định danh (nominal) gồm các giá trị như sau: (1) walk, (2) car, (3) bicycle, (4) bus.

Chú ý: Mỗi gia đình chỉ chọn 1 trong 4 giá trị của Mode

· Activity (hoạt động): Chỉ các hoạt động của gia đình tại công viên, có kiểu dữ liệu định danh và gồm 6 hoạt động như sau: (1) sport, (2) picnic, (3) reading, (4) walk , (5) meditation, (6) jog.

Mỗi gia đình có thể chọn nhiều hoạt động

Satisfaction (sự hài lòng): Đo lường sự hài lòng của khách đến giải trí tại công viên đối với các dịch vụ của công viên, có kiểu dữ liệu thứ bậc (ordinal) gồm 5 mức như sau::

-2 = Rất không hài lòng (Very dissatisfied),

- 1 = Không hài lòng (dissatisfied),

0 = Không quan tâm (indifference),

1 = Hài lòng (satisfied),

2 = Rất hài lòng (Very satisfied).

· Playground (sân chơi trẻ con): Có kiểu dữ liệu định danh, có hai giá trị là Yes và No cho biết công viên có sân chơi cho trẻ con hay không.

Giả sử rằng các câu hỏi điều tra được hỏi với 12 gia đình đã đến công viên giải trí và dữ liệu ban đầu (raw data) thu được như sau:


Với những dữ liệu thu được như trên, chúng ta muốn nghiên cứu để làm tăng mức độ hài lòng của khách đến công viên. Câu hỏi nghiên cứu cần trả lời là “Làm sao nâng cao mức độ hài lòng của khách đến vui chơi tại công ty ABC?

Để trả lời câu hỏi trên, ta phải trả lời các câu hỏi nhỏ sau:

1. Mức độ hài lòng của khách tới vui chơi tại công viên ABC là bao nhiêu?

2. Hoạt động nào được lựa chọn nhiều nhất trong công viên?

3. Khách thường đến công viên bằng phương tiện nào ?

4. Nếu có sân chơi cho trẻ em ở công viên thì liệu mức độ hài lòng của khách có tăng lên không?

5. Có mối quan hệ (tương quan- Correlation) giữa hoạt động (activity) và thời gian hoạt động của khách không?

6. Có mối quan hệ (tương quan) giữa thời gian mà khách lưu lại công viên với phương tiện (mode) mà họ sử dụng để đến công viên không?

Làm sao bạn sẽ trả lời những câu hỏi nghiên cứu này? Các bước sau đây sẽ giúp bạn trả lời các câu hỏi trên. Giả sử rằng dữ liệu thu được ở trên là các mẫu hợp lệ (dù số mẫu rất ít và chỉ dùng để minh họa).

2. Mã hóa dữ liệu từ bảng câu hỏi (Data Coding from Questionnaires)

Chúng ta đã có dữ liệu điều tra từ bảng câu hỏi và chúng ta muốn phân tích dữ liệu đó. Bước đầu tiên của phân tích dữ liệu là mã hóa dữ liệu (data coding). Mã hóa dữ liệu là quá trình chuyển đổi dữ liệu có được từ bảng câu hỏi sang định dạng phù hợp để phân tích (và có thể thực hiện tính toán trên máy tính).

Dữ liệu thu được gồm 6 biến (variable) và chỉ có 2 biến định danh (nominal) là ActivityPlayground là cần chuyển đổi và 4 biến còn lại đã có kiểu dữ liệu phù hợp (kiểu số).

Biến Activities được chuyển qua kiểu nhị phân chỉ nhận 2 giá trị 1 và 0. (1 có nghĩa là hoạt động đó được chọn và 0 có nghĩa là không chọn hoạt động đó). Ta có 6 hoạt động nên ta chuyển thành 6 cột (mỗi cột tương ứng với 1 hoạt động).

Biến Playground cũng được chuyển sang dạng nhị phân (1 = yes : có sân chơi, và 0 = no: không có sân chơi)

Kết quả của bước mã hóa dữ liệu ta thu được dữ liệu đã mã hóa như sau:


3. Phân tích đơn giản với thống kê mô tả (Descriptive Statistics)

Trong phần này, chúng ta tiến hành phân tích đơn giản đầu tiên với dữ liệu có được sau khi mã hóa bằng cách sử dụng MS Excel để tính toán các thống kê mô tả trên dữ liệu đã mã hóa.

Để thực hiện tính các thống kê mô tả trong Excel ta làm như sau:

· Click menu Tools - Data Analysis – Descriptive Statistics.


· Thiết lập các tùy chọn cho hộp thoại Descriptive Statistics như hình sau và bấm OK

Kết quả của Descriptive Statistics sau một số thao tác định dạng cho dễ nhìn (bỏ đi các cột tham số giống nhau trong bảng) như sau:


Thống kê mô tả tính toán rất nhiều tham số như bảng trên và giúp ta phân tích đơn giản ban đầu về dữ liệu. Không nên lo lắng nếu không hiểu tất cả các tham số được tính từ thống kê mô tả nên, chỉ nên tập trung vào các câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra từ đầu. (đó là lý do vì sao phải đặt ra các câu hỏi nghiên cứu trước khi tiến hành phân tích dữ liệu).

Từ dữ liệu bảng trên, ta thấy rằng mức độ hài lòng (Satisfaction) trung bình là 1 (thang đo mức độ hài lòng có 5 mức độ từ -2 đến 2). Ta có thể kết luận rằng khách khá hài lòng với điều kiện của công viên ABC. Như vậy câu hỏi nghiên cứu 1 về mức độ hài lòng của khách với công viên ABC đã được trả lời.

Cũng từ kết quả tính toán trên, ta có được tần suất sử dụng các hoạt động tại công viên ABC như sau:



Dựa vào dữ liệu về tần suất các hoạt động trên, ta có thể kết luận phần lớn gia đình tới công viên để hoạt động Picnic (27.3%) hoặc đi bộ (Walk) (22.7%). Phân tích này đã trả lời câu hỏi nghiên cứu 2 : “Hoạt động nào được lựa chọn nhiều nhất trong công viên?”

Từ số Mode của biến Mode (phương tiện) ta có thể kết luận phần lớn khách đến công viên bằng xe hơi (Mode = 2, car). Phân tích này đã trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ 3: “Khách đến công viên bằng phương tiện nào?”

4. Phân tích dựa vào bảng chéo (Cross Tabulation)

Trong phần trên, chúng ta đã thực hiện các phân tích đơn giản ban đầu với dữ liệu bằng thống kê mô tả và tần suất từ dữ liệu. Phần này tìm hiểu làm thế nào để phân tích mối quan hệ giữa các biến trong dữ liệu điều tra từ bảng hỏi bằng cách sử dụng bảng chéo (Cross Tabulation) còn gọi là Pivot Table hay contingency table.

Sử dụng dữ liệu đã mã hóa, chúng ta muốn trả lời câu hỏi nghiên cứu tiếp theo:

  1. Nếu có sân chơi cho trẻ em ở công viên thì liệu mức độ hài lòng của khách có tăng lên không?
  2. Có mối quan hệ (tương quan) giữa hoạt động (activity) tại công viên mà khách chọn và thời gian (time) mà các gia đình lưu lại công viên không?
  3. Có mối quan hệ (tương quan) giữa thời gian mà khách lưu lại công viên với phương tiện (mode) mà họ sử dụng để đến công viên không?

Bởi vì các câu hỏi nghiên cứu này về mối quan hệ giữa 2 biến, chúng ta cần sử dụng kỹ thuật phân tích dựa trên Cross Tabulation để trả lời các câu hỏi này. Cross tabulation là bảng tần suất giữa hai hay nhiều biến. Nó có rất nhiều tên gọi khác nhau, các nhà thống kê gọi là Contigency Table trong khi MS Excel gọi là Pivot Table.

Để tạo Pivot Table trong Excel ta tiến hành như sau:

Menu Data – Pivot Table and Pivot Chart Report .


Chọn Next và chọn vùng dữ liệu, xem hình sau:


Bấm Next và chọn Layout button

Để trả lời mối quan hệ (relationship) giữa 2 biến Playground Satisfaction, kéo và thả tên các biến tương ứng ở bên phải vào sơ đồ. Đặt biến Satisfaction trong hàng (row) và biến Playground trong cột (column) và kéo thả biến Satisfaction một lần nữa vào vùng Data .Nó sẽ xuất hiện Sum of Satisfaction. Sau đó, double click vào nút cuối cùng (Sum of Satisfaction ) và Pivot Table Field dialog xuất hiện. Trong mục summarized by chọnCount và click OK 2 lần.


Khi quay trở lại bước 3 của Pivot table wizard, Click Finish button.


MS excel sẽ tự động tạo ra Cross Tabulation table như sau:


Để thuận lợi cho việc phân tích, bạn có thể copy dữ liệu từ Pivot table ra và dán vào vùng khác (chú ý là sử dụng Edit - Paste Special, chọn value)

Sau khi copy và định dạng lại dữ liệu từ Pivot table, ta tính giá trị kỳ vọng (expected value) theo công thức sau (Giá trị kỳ vọng còn được gọi là giá trị độc lập vì được tính với giá thuyết H0 đúng). Để biết liệu biến Playground có quan hệ với biến Satisfaction hay không, ta thực hiện kiểm định đơn giản gọi là Chi-square test. Chi-square test cho phép kiểm tra tính độc lập của 2 biến trong Contingency table.

Công thức tính giá trị kỳ vọng


Trong đó Oij là giá trị quan sát (Observe value) tại dòng i cột j

Ý nghĩa của công thức trên là để có được giá trị độc lập tại dòng i cột j, ta nhân tổng của dòng i với tổng của cột j và chia cho tổng của tất cả dữ liệu trong bảng.


Giá trị trong bảng trên đây được lấy tổng hợp từ mẫu nên gọi là giá trị quan sát (Observe value)

Ví dụ, giá trị độc lập của ô tại dòng 3 cột 2, ta có Satisfaction = 1 và Playground = 1, ta có 2 trả lời (respondent). Ta có tổng dòng là 4 và tổng cột là 7. Tổng toàn bộ dữ liệu là 12 cho nên giá trị độc lập cho ô (cell) này là 4*7/12 = 2.333.

Thực hiện tương tự ta có giá trị độc lập cho tất cả các ô còn lại của bảng như sau:


Giá trị kỳ vọng là giá trị tính được với giả thuyết H0 đúng. (ở đây giả thuyết H0 là : Giữa Playground và Satisfaction không có mối quan hệ)

Bảng này có nghĩa là nếu biến Playground hoàn toàn (100%) độc lập với Satisfaction thì giá trị quan sát trong Pivot Table phải bằng với với những giá trị kỳ vọng trong bảng này.

Kiểm định Chi-square (Chi-squre Test): Kiểm định Chi-square dùng để kiểm định sự độc lập của 2 biến phân loại ngẫu nhiên. Nếu xác suất nhỏ hơn 0.05 (5%, mức ý nghĩa) thì có thể kết luận 2 biến có mối quan hệ. Ngược lại, không có cơ sở để kết luận giữa 2 biến có mối quan hệ.

Xác suất đó có thể được tính trong Excel bằng hàm kiểm định Chi-square như sau


Trong đó :

: Giá trị Chi-square (Chi-square value)

df: Bậc tự do (degree of freedom)

Để tính xác suất này, ta phải tính bình phương độ lệch giữa giá trị quan sát (observe value) từ Pivot Table và giá trị kỳ vọng (expected value) từ Independent table và chia cho giá trị kỳ vọng rồi tính tổng tất cả các độ lệch này trong bảng. Giá trị này gọi là giá trị Chi-square. Công thức tính như sau:


Bậc tự do (df – degree of freedom) được tính là tổng số hàng trừ 1 nhân với tổng số cột trừ 1

df = (total rows- 1)*(total columns -1)

Từ dữ liệu trong ví dụ trên ta tính tổng bình phương các độ lệch bằng 7.886 và bậc tự do df = (4-1)*(2-1)=3. Sử dụng hàm CHIDIST (7.886, 3) ta có xác suất p=0.048 (xem bảng dữ liệu sau)


Vì xác suất p=0.048 nhỏ hơn 0.05 (mức ý nghĩa 5%) nên ta có thể kết luận rằng tồn tại mối quan hệ giữa playground và Satisfaction level (nói theo lý thuyết kiểm định giả thuyết là bác bỏ H0). Phân tích này cho phép trả lời câu hỏi nghiên cứu 4 ở trên. Có nghĩa là nếu công viên có sân chơi cho trẻ em thì sẽ làm tăng mức độ hài lòng của khách.

Từ Chi-square value và bậc tự do (degree of freedom ), sử dụng hàm CHIDIST(Chi-square value, degree of freedom) để tính xác suất p và so sánh p với mức ý nghĩa α (thường α=5%) ta có thể kết luận có tồn tại mối quan hệ giữa các biến hay không?. Ngược lại nếu biết xác suất p và bậc tự do ta có thể sử dụng hàm CHIINV(probability, degree of freedom) để tìm được Chi-square value.

Ta có thể sử dụng Chi-square value tính được bằng hàm CHIINV với xác suất p=0.05 so sánh với Chi-square value tính được từ bảng dữ liệu. Nếu giá trị Chi-square tính được từ hàm CHINV nhỏ hơn Chi-square value tính được từ bảng thì ta có thể kết luận giữa các biến có mối quan hệ. Chẳn hạn trong ví dụ trên, sử dụng hàm =CHIINV(0.05,3) ta sẽ có được Chi-square value là 7.815 nhỏ hơn Chi-square value tính được từ bảng là 7.886 nên ta kết luận giữa Playground và Satisfaction có mối quan hệ.

(Nếu bạn chưa quen với kiểm định Chi-square thì xem thêm về Chi-square test tại đây)

Để trả lời câu hỏi nghiên cứu 5 : Có mối quan hệ (tương quan) giữa hoạt động (activity) mà khách chọn và thời gian hoạt động (time) của khách không? Ta làm tương tự các bước như trên để tạo ra Pivot table của ActivityTime như sau:

Kéo thả biến Time button lên column và kéo thả tất cả các Activity (từ 1 đến 6) vào vùngData. Chọn hàm sum vì activity có kiểu dữ liệu binary (1 và 0) như sau:


Thực hiện tính toán giống như phần trả lời câu hỏi 4 ta được kết quả phân tích như sau:


Chi-square test


Vì xác xuất p=0.462 lớn hơn 0.05 nên ta kết luận không có mối quan hệ giữa hoạt động và thời gian hoạt động của khách.

Nếu ta sử dụng hàm CHIINV(0.05, 25) ta tính được Chi-square value =37.652 >25.012 nên kết luận tương tự là không có mối quan hệ giữa hoạt động và thời gian hoạt động của khách.

Đối với câu hỏi nghiên cứu cuối cùng, câu hỏi số 6: Có mối quan hệ (tương quan) giữa thời gian mà khách lưu lại công viên với phương tiện (mode) mà họ sử dụng để đến công viên không?

Ta xây dựng bảng Pivot table cho 2 biện TimeMode như sau: Kéo thả Time vào Column và Mode và Row. Kéo thả Mode một lần nữa vào vùng Data và chọn hàm Countnhư sau:


Kết quả phân tích tiến hành tương tự như trên ta có:


Chi- square Test


Vì p=0.06 >0.05 nên ta kết luận không có mối quan hệ giữa phương tiện mà khách sử dụng để đi đến công viên với thời gian hoạt động của khách tại công viên.



Excel's Statistical Functions - Các Hàm Thống kê trong MS Excel

Dương Đức Minh: Ngồi lọ mọ mãi với SPSS cuối cùng rồi cũng xong, xong rồi thì lại phân vân không biết mình làm đúng hay sai. Thôi thì Google cách kiểm tra lại qua Excel. Quá nhiều cái hay mà trước giờ mình không quan tâm nên không biết.

Excel thì không cần phải giới thiệu nữa rồi. Mình chỉ copy lại những cái gì mình đã dùng và đặc biệt hữu ích cho các nghiên cứu về khoa học xã hội, hành vi vốn dành cho những novice researcher như mình - người mà cứ nói đến toán là sợ, huống hồ sác xuất với lại thống kê :)

Mình chỉ copy lại nhũng gì quan trọng, còn cách sử dụng cụ thể và ví dụ minh họa thì đã có đầy đủ trong mục Help của Excel rồi.


NHÓM HÀM VỀ THỐNG KÊ
AVEDEV (number1, number2, ...) : Tính trung bình độ lệch tuyệt đối các điểm dữ liệu theo trung bình của chúng. Thường dùng làm thước đo về sự biến đổi của tập số liệu

AVERAGE (number1, number2, ...) : Tính trung bình cộng

AVERAGEA (number1, number2, ...) : Tính trung bình cộng của các giá trị, bao gồm cả những giá trị logic

AVERAGEIF (range, criteria1) : Tính trung bình cộng của các giá trị trong một mảng theo một điều kiện

AVERAGEIFS (range, criteria1, criteria2, ...) : Tính trung bình cộng của các giá trị trong một mảng theo nhiều điều kiện

COUNT (value1, value2, ...) : Đếm số ô trong danh sách

COUNTA (value1, value2, ...) : Đếm số ô có chứa giá trị (không rỗng) trong danh sách

COUNTBLANK (range) : Đếm các ô rỗng trong một vùng

COUNTIF (range, criteria) : Đếm số ô thỏa một điều kiện cho trước bên trong một dãy

FREQUENCY (data_array, bins_array) : Tính xem có bao nhiêu giá trị thường xuyên xuất hiện bên trong một dãy giá trị, rồi trả về một mảng đứng các số. Luôn sử dụng hàm này ở dạng công thức mảng
MAX (number1, number2, ...) : Trả về giá trị lớn nhất của một tập giá trị

MAXA (number1, number2, ...) : Trả về giá trị lớn nhất của một tập giá trị, bao gồm cả các giá trị logic và text

MEDIAN (number1, number2, ...) : Tính trung bình vị của các số.

MIN (number1, number2, ...) : Trả về giá trị nhỏ nhất của một tập giá trị

MINA (number1, number2, ...) : Trả về giá trị nhỏ nhất của một tập giá trị, bao gồm cả các giá trị logic và text

MODE (number1, number2, ...) : Trả về giá trị xuất hiện nhiều nhất trong một mảng giá trị

PERCENTILE (array, k) : Tìm phân vị thứ k của các giá trị trong một mảng dữ liệu

PERCENTRANK (array, x, significance) : Trả về thứ hạng (vị trí tương đối) của một trị trong một mảng dữ liệu, là số phần trăm của mảng dữ liệu đó

QUARTILE (array, quart) : Tính điểm tứ phân vị của tập dữ liệu. Thường được dùng trong khảo sát dữ liệu để chia các tập hợp thành nhiều nhóm…

RANK (number, ref, order) : Tính thứ hạng của một số trong danh sách các số

SKEW (number1, number2, ...) : Trả về độ lệch của phân phối, mô tả độ không đối xứng của phân phối quanh trị trung bình của nó

NHÓM HÀM VỀ PHÂN PHỐI XÁC SUẤT

CHITEST (actual_range, expected_range) : Trả về giá trị của xác xuất từ phân phối chi-squared và số bậc tự do tương ứng.

CONFIDENCE (alpha, standard_dev, size) : Tính khoảng tin cậy cho một kỳ vọng lý thuyết

NORMDIST (x, mean, standard_dev, cumulative) : Trả về phân phối chuẩn (normal distribution). Thường được sử dụng trong việc thống kê, gồm cả việc kiểm tra giả thuyết

TTEST (array1, array2, tails, type) : Tính xác xuất kết hợp với phép thử Student.

ZTEST (array, x, sigma) : Trả về xác suất một phía của phép thử z.

PEARSON (array1, array2) : Tính hệ số tương quan momen tích pearson (r), một chỉ mục không thứ nguyên, trong khoảng từ -1 đến 1, phản ánh sự mở rộng quan hệ tuyến tính giữa hai tập số liệu

Nguồn: Giải pháp excel.com

Saturday, December 10, 2011

Gương học tập, ý chí và nghị lực

Học hết cấp ba, anh đi xuất khẩu lao động, rồi về nước năm 1988. Một thời gian anh phải buôn xe đạp để mưu sinh. Nhưng không vì thế mà khát vọng tri thức trong anh lụi tàn, bằng cách nào đó, anh đã học xong hai bằng thạc sỹ kinh tế và cử nhân chính trị. Với nhiệt tình công tác, anh lần lượt trở thành phó Chủ tịch Trung ương hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, rồi phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, phó bí thư, rồi bí thư tỉnh ủy Bắc Giang. Đại hội đảng lần thứ 11, người ta lại thấy tên anh trong danh sách trung ương ủy viên...

Đành rằng Nguyễn Thanh Nghị có thể thông minh hơn Nông Quốc Tuấn khi có bằng tiến sỹ ở Mỹ, nhưng về ý chí thì có khi đéo bằng!!!

Nguồn; laothayboigia

Thursday, December 1, 2011

Exploring Statistical Methods in Social Sciences

Khám phá các phương pháp tính toán trong NCKH xã hội

Bài của GS Nguyễn Văn Tuấn Đại học New South Wales, Sydney, Australia

Báo cáo tại Hội thảo KHXH Thời Hội nhập tổ chức ngày 15-12-2011 tại ĐHQG-HCM

Hai chữ khoa học trong khoa học xã hội có thể hiểu bằng nhiều nghĩa khác nhau, nhưng ở đây tôi muốn nói đến những khám phá tri thức mới có độ tin cậy và chính xác cao. Cách hiểu khoa học này thật ra xuất phát từ khoa học tự nhiên, nhưng cũng có thể áp dụng cho khoa học xã hội. Trong bài này, tôi sẽ bàn về việc ứng dụng khoa học thống kê (statistical science, chứ không phải đơn thuần thống kê học – statistics) như là một phương tiện để khám phá tri thức mới cho các nhà khoa học xã hội.

Các dữ liệu từ nghiên cứu khoa học xã hội thường rất phức tạp, vì mang tính đa biến và đa chiều. Khám phá những cơ cấu và mối liên hệ giữa các yếu tố trong một nghiên cứu là một thách thức lớn cho các nhà khoa học xã hội. Tuy nhiên, những phát triển trong khoa học thống kê đã giúp cho việc khám phá dễ dàng hơn. Ứng dụng của khoa học thống kê trong khoa học xã hội có thể chia thành hai nhóm: thiết kế nghiên cứu và suy luận khoa học.Bất cứ công trình nghiên cứu nào cũng khởi đầu từ khâu thiết kế, và khoa học thống kê đóng góp vào việc (a) chọn mô hình nghiên cứu thích hợp và tối ưu cho câu hỏi nghiên cứu; (b) ước lượng cỡ mẫu cần thiết cho mô hình nghiên cứu; cách lấy mẫu sao cho đảm bảo tính đại diện một quần thể.

Phân tích dữ liệu trong khoa học xã hội có thể chia thành hai nhóm chính: mô tả và suy luận. Mỗi nhóm phân tích đều có sự đóng góp của khoa học thống kê. Đối với phân tích mô tả, các phương pháp “cổ điển” như kiểm định Ki bình phương (Chi-squared test), kiểm định t, kiểm định z có thể ứng dụng để đáp ứng những câu hỏi nghiên cứu đơn giản. Rất nhiều phương pháp phân tích suy luận (inferential statistics) có thể ứng dụng cho các nghiên cứu khoa học xã hội. Các phương pháp định lượng mang tính suy luận bao gồm các mô hình phân tích hai biến (bivariate analysis) và đa biến (multivariate analysis) là những phương pháp quan trọng hỗ trợ cho nhà nghiên cứu trong việc thẩm định những mối tương quan phức tạp trong khoa học xã hội. Những phương pháp phân tích đa biến như phân tích yếu tố (factor analysis) và phân tích cụm (cluster analysis) còn giúp cho nhà nghiên cứu giảm độ phức tạp của cơ cấu dữ liệu, và dẫn đến những khám phá mà các phương pháp phân tích đơn giản không thể nào phát hiện được. Những mô hình như hồi qui tuyến tính, hồi qui logistic, hồi qui Poisson, hồi qui Cox cung cấp những phương tiện định lượng rất quan trọng trong việc khám phá các yếu tố có ảnh hưởng đến một sự cố hay hiện tượng xã hội.

Trong vài năm gần đây, khoa học thống kê đã có những phát triển ngoạn mục, và những phát triển này cung cấp cho khoa học xã hội những phương pháp định lượng để có những khám phá mới. Những phát triển mới trong mô hình tuyến tính cho phép nhà nghiên cứu phân tích những dữ liệu thu thập theo thời gian (longitudinal research). Với sự phát triển của máy tính, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội đã có thể tiếp cận các phương pháp phân tích “hiện đại” như bootstrap và mô phỏng MCMC (Markov Chain Monte Carlo) mà trước đây chỉ dành cho các nhà khoa học thống kê chuyên nghiệp. Phương pháp MCMC cũng giúp cho các nhà khoa học xã hội có thể phân tích dữ liệu theo trường phái Bayes (Bayesian approach). Các phương pháp Bayes càng ngày càng trở nên hấp dẫn và quan trọng trong khoa học xã hội, vì các phương pháp này cho phép nhà nghiên cứu phát biểu về độ tin cậy của một giả thuyết khoa học dựa trên dữ liệu quan sát (thay vì phương pháp cổ điển chỉ cho phép nhà nghiên cứu phát biểu về dữ liệu quan sát trên cơ sở giả thuyết khoa học).

Ở nước ta, có một nghịch lí đáng chú ý: các nghiên cứu về khoa học xã hội hiện diện trên các tạp chí trong nước rất nhiều, nhưng lại xuất hiện rất ít trên các tạp chí khoa học quốc tế. Số liệu thống kê năm 2004 cho thấy trong số 8408 bài báo khoa học trong các tạp chí và kỉ yếu khoa học, có đến 4345 (hay 53%) là những bài báo liên quan đến khoa học xã hội. Tuy nhiên, trong năm 2004, con số bài báo khoa học xã hội trên các tạp chí khoa học quốc tế chưa quá con số 10 bài. Ngoài ra, phân tích của chúng tôi cho thấy trong thời gian 1996 – 2005, trong tổng số 3456 bài báo khoa học từ Việt Nam trên các tạp chí quốc tế, chỉ có 69 bài (tức khoảng 2%) liên quan đến ngành khoa học xã hội. Do đó, tuy số lượng nghiên cứu khoa học xã hội ở nước ta cao hơn so với các ngành khoa học tự nhiên, nhưng đại đa số những nghiên cứu đó chỉ xuất hiện trên các tạp chí trong nước, và rất ít xuất hiện trên các tạp chí quốc tế.

Một trong những “nguyên nhân” cho sự hiện diện khiêm tốn của khoa học xã hội Việt Nam trên trường quốc tế là vấn đề phương pháp định lượng. Có thể nói rằng phần lớn những nghiên cứu khoa học xã hội ở Việt Nam chưa tận dụng những phương pháp khoa học (scientific method) và phương pháp thống kê trong việc thiết kế nghiên cứu, phân tích dữ liệu, và diễn giải dữ liệu. Một số nghiên cứu có sử dụng phương pháp thống kê, nhưng chưa hẳn có hệ thống và chưa thích hợp. Nhiều sai sót hiển nhiên về cách lấy mẫu, phân tích và suy luận từ dữ liệu có thể tìm thấy trong rất nhiều bài báo trong ngành khoa học xã hội. Những thiếu sót về phương pháp dẫn đến chất lượng nghiên cứu chưa được cao, và hệ quả là nhiều công trình khó có cơ hội để được công bố trên các tạp chí khoa học xã hội quốc tế.

Ở các nước tiên tiến, khoa học thống kê (statistical science) đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển khoa học xã hội. Từ năm 1965, báo cáo Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Xã hội ở Anh (Social Science Research Council) nhấn mạnh rằng nếu không có thống kê học và toán học, thì khoa học xã hội không thể nào phát triển được. Do đó, khoa học xã hội ở nước ta cần đến khoa học thống kê để phát triển. Khoa học thống kê có thể giúp cho các nhà khoa học xã hội phân tích mô tả và phân tích suy luận, và dẫn đến những khám phá có ý nghĩa thực tế và giúp cho việc hoạch định các chính sách công hữu hiệu hơn.

Tuesday, November 29, 2011

36 strategies - Tam thap luc ke (tiep)

19. Cầm tặc cầm vương(Dẹp giặc phải bắt tướng giặc)

Cầm tặc cầm vương là dẹp giặc phải bắt chúa giặc.

Phương pháp bắt chúa giặc thật thiên biến vạn hóa, không cứ bằng sức mạnh hay bằng trí khôn. Các kế khác như Ðiệu hổ ly sơn, Mỹ nhân kế hay Man thiên quá hải đều có thể dùng cho kế Cầm tặc cầm vương. Ðể đối phó với một nhân vật anh hùng, thì dù một quả đạn mà giết hay dùng mỹ nhân kế mà nhử thì cũng như nhaụ

Nhưng đa số âm mưu cầm vương được hiệu quả bằng kích thích anh hùng và mỹ nhân kế.

Tự cổ anh hùng đa hiếu sắc là vậỵ

Phạm Lãi thua trận rồi, mà chỉ dùng một nàng Tây Thi đã đủ giam cầm Phù Saị Lý Viên muốn đoạt quyền của Xuân Thân Quân, nên đã cho cô em là Lý Yên sang làm tì thiếp. Ðó là những cách gián tiếp để cầm vương.


20. Ban chư ngật hổ(Giả làm con heo để ăn thịt con hổ)

Kế Ban chư ngật hổ là giả làm con heo để ăn thịt con hổ.

Lão Tử nói:

- Người cực khôn khéo mà làm ra vụng về cũng như câu đại trí nhược ngu. Người đi săn thường học tiếng heo kêu rồi tự giả làm heo để nhử con hổ.

Ðối với kẻ thù, ta hãy giả ngu như một con heo, trên bề mặt cái gì cũng thuận chịu, lúc nào cũng cười, lúc nào cũng cung kính để cho địch mất hết nghi âm. Chờ thời cơ chín, tìm thấy chỗ nhược của kẻ thù mà đập đòn sấm sét.

Dùng việc không gì quan trọng bằng bí mật.

Hành động không gì quan trọng bằng thừa lúc bất ý.

Dò xét không gì quan trọng bằng làm cho địch không hay biết.

Bên ngoài ra vẻ loạn mà bên trong rất có cơ ngũ.

Tỏ ra đói mệt nhưng thật là no khỏẹ

Làm ra ngu xuẩn nhưng rất tinh tường.

Những câu trên đây chính là căn bản lý luận của kế Ban chư ngật hổ vậỵ


21.Quá kiều trừu bản(Qua cầu rồi phá cầu)

Khi quân lâm vào thế kẹt thì tướng phải đặt quân trong cái thế sống chết (chặt cầu) nhằm khuyến khích quân tử chiến mới mong đạt được thắng lợi thay vì cầu sống hèn hạ. Song song, việc chặt cầu cũng làm cho kẻ địch khó theo đuổi hoặc có nghi ngờ cũng nghĩ là mình không đủ ý chí tiến thân như Lưu Bị ngày xưa.


22. Liên hoàn kế(Kế móc nối nhau)

Liên hoàn kế là nối liền với nhau thành một dây xích.

Liên hoàn kế còn là vận dụng một quyền thuật để tạo phản ứng dây chuyền cho đối phương hoặc gây thành phản ứng nhiều mặt.

Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất cần thiết cho việc dùng Liên hoàn kế. Vì người đẹp ví như nước, anh hùng ví như bùn, nước làm cho bùn nhão rạ

Từ ngàn xưa, đa số anh hùng đã vì thương hương tiếc ngọc nên bỏ lãng nhiệm vụ.

Tuy vậy, vẫn phải phân biệt Mỹ nhân kế với Liên hoàn kế.

Liên hoàn kế là một hình ảnh của thực tiễn, bất cứ việc gì xảy ra cũng gây thành phản ứng dây chuyền. Việc xảy ra hôm nay cũng không tự dưng mọc ra, nó phải là kết quả dây chuyền từ những sự việc trước.


23.Dĩ dật đãi lao(Lấy khỏe để đối phó với mệt)

Kế Dĩ dật đãi lao là lấy sự thanh thản để đối phó với hấp tấp, nhọc nhằn; dưỡng sức mà đợi kẻ phí sức.

Kế này viết ở trong thiên Quân Tranh của bộ Tôn Tử Binh Pháp: Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi mệt nghĩa là trên chiến thuật phải tìm nắm trước địa vị chủ động để ứng phó với mọi tấn công của địch.

Cũng có ý nói nên chuẩn bị chu đáo, dễ dàng lấy cái thế bình tĩnh xem xét tình hình biến hóa mà quyết định chiến lược, chiến thuật. Ðợi địch mỏi mệt, tỏa chiết bớt nhuệ khí rồi mới thừa cơ xuất kích.

Tôn Tử gọi thế là: "Ẩn sâu dưới chín từng đất, hành động trên chín từng trời".

Sử dụng sách lược này đòi hỏi thái độ tuyệt đối trầm tĩnh ứng biến, đo được ý kẻ thù, hoàn cảnh kẻ thù, thực lực kẻ thù. Nếu thời cơ chưa chín thì đứng yên như trái núị Khi cơ hội vừa tới thì lập tức lấp sông, chuyển bể.

Tư Mã Ý ngăn Gia Cát Lượng ở Kỳ Sơn.

Chu Du phóng hỏa tại Xích Bích.

Tào Tháo đại phá Viên Thiệu nơi Quan Ðộ.

Tạ Huyền đuổi Bồ Kiên ở Phi Thủỵ

Tất cả đều lấy ít đánh nhiều, thế kém vượt thế khỏẹ Tất cả đều là kết quả sử dụng tài tình sách lươc Dĩ dật đãi lao.


24 Chỉ tang mạ hòe(Chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe)

Chỉ tang mạ hòe là chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòẹ Y¨ nói vì không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ.


25. Lạc tỉnh hạ thạch(Ném đá vào người dưới giếng)

Lạc tỉnh hạ thạch là ném đá vào đầu kẻ đã rơi xuống giếng.

Rơi xuống giếng lại còn ném đá vào đầu nạn nhân. Nếu đứng trên quan điểm đạo đức Khổng - Mạnh thì phải là hành động không chính nhân quân tử, nhưng nếu coi là một mưu kế thì hành động này lại là một hành động sáng suốt.


Căn bản triết lý của Lạc tỉnh hạ thạch là chi phối được thì mới chiếm đoạt được, và nhân từ với kẻ thù tức là tàn nhẫn với chính tạ

Lưu Bị lúc nào hé miệng cũng nói những điều nhân từ, lúc nào cũng chảy nước mắt, nhưng ông lại là người cũng giỏi thủ đoạn Lạc tỉnh hạ thạch nhất.

Chẳng vậy mà khi Lã Bố vốn là người làm nhiều ân huệ đối với Lưu Bị, nào việc bắn kích ở Viên Môn, nào việc cho Lưu Bị nương tựa ở căn cứ mình... Ðến lúc Lã Bố bị bắt sau khi thất trận Từ Châu, Tào Tháo trong lòng còn đôi chút thương mến muốn dụ dỗ Lã Bố, Lưu Bị ngại Tào Tháo có thêm một mãnh tướng nữa nên đã ghé tai Tào Tháo mà nhắc khéo:

- Ông không nhớ chuyện Ðinh Nguyên và Ðổng Trác hay saỏ

(Ðinh Nguyên và Ðổng Trác đều nhận Lã Bố làm con nuôi, nhưng đều bị chết vì tay Lã Bố).

Lưu Bị đã không kể đến ơn nghĩa, lại còn đưa đòn độc Lạc tỉnh hạ thạch hạ Lã Bố. Như vậy, Lã Bố làm sao khỏi chết!


26. Hư trương thanh thế(Thổi phồng thanh thế)

Hư trương thanh thế là thổi phồng thanh thế để cho người ta chóa mắt, nể sợ.

Ðời Tam Quốc, Tào Tháo tiến xuống Giang Ðịnh, rầm rộ cả trăm vạn hùng quân. Tháo định dùng ưu thế tuyệt đối để buộc Tôn Quyền phải hàng phục. Nhưng Khổng Minh trông thấy âm mưu này nên chỉ ba vạn quân với một số mưu kế và trận gió đông đã đánh bại quân Tàọ

Khi sử dụng kế này, trước hết phải xem mục đích và giá trị của nó thế nào đã, rồi mới định cỡ to nhỏ.


27. Phủ để trừu tân(Bớt lửa dưới nồi)

Kế Phủ để trừu tân là bớt lửa dưới nồi, ý nghĩa là giải quyết trên căn bản một vấn đề, chủ ý không cho nó phát ra, (bớt lửa cho nước khỏi trào).

Khi có một việc đã bùng nổ ra rồi thì tìm cách làm cho nó dịu đi, không để nó tiếp tục ác liệt.

Chỗ diệu dụng kế Phủ để trừu tân là không nghe thấy tiếng, không nhìn thấy hình, vô cùng như trời đất, khó hiểu như âm dương, khiến cho kẻ thù rơi vào kế của mình mà họ không biết.

Không kể tình trường, chiến trường hay thương trường, kế Phủ để trừu tân lúc nào cũng là kế rất âm độc, lớn mang hiệu quả lớn, nhỏ có hiệu quả nhỏ.

Ở tình trường, anh chàng kém vế thường o bế hai thân hoặc anh em của đào, hơn là tấn công chính nàng!

Ở chiến trường, kế Phủ để trừu tân lại càng dày đặc, giăng mắc như mạng nhện.

28. Sát kê hách hầu(Giết gà cho khỉ sợ)

Sát kê hách hầu nghĩa đen là giết con gà cho con khỉ sợ.

Theo truyền thuyết dân gian, con khỉ rất sợ trông thấy máu, cho nên khi người ta muốn dạy khỉ, trước hết họ giết một con gà, bắt con khỉ nhìn thấy đống máu bê bết rồi mới bắt đầu giáo hóạ Lúc bắt khỉ cũng thế, người ta vặn cổ con gà cho nó kêu lên những tiếng ghê rợn, khiến cho khỉ bủn rủn chân tay thì đến bắt.

Sát kê hách hầu có tác dụng lớn, làm cho các vụ mới nở ra trong trứng nước bị rơi vào cảnh bối rối, sợ sệt.


29.Phản gián kế (Dùng kế của đối phương để quật lại)


Phản gián kế là dùng người của đối phương lừa dối đối phương, dùng kế địch lừa địch.

Tôn Tử nói:

- Biết mình là biết thực lực và nhiệm vụ của mình. Biết người là biết thực lực và ý đồ của địch. Biết mình thì tương đối dễ hơn biết ngườị Cho nên muốn biết người thì phải dùng gián điệp.

30.Lý đại đào cương(Ðưa cây lý chết thay cây đào)

Lý đại đào cương là đưa cây lý chết thay cho cây đàọ

Người lớn làm họa, bắt người bé chịu tội thaỵ Có rất nhiều kẻ tác gian phạm tội lại bắt người khác thế thân.



31.Thuận thủ khiên dương(Thuận tay dắt con dê về)

Thuận thủ khiên dương theo nghĩa đen là thuận tay dắt con dê về.

Sự việc trên đời, thiên biến vạn hóa rất kỳ diệụ Phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt, đó là những thâu hoạch, những cái lợi bất ngờ.


32.Dục cầm cố tung(Muốn bắt mà lại thả ra)

Dục cầm cố tung theo nghĩa đen là muốn bắt cho nên thả rạ

Muốn thực hành kế này, phải có một nhãn quan sâu rộng, một tấm lòng nhẫn nại vô song. Những kẻ cấp công cận lợi không bao giờ có đủ tài trí để thi hành nó.

Kế Dục cầm cố tung không thi hành theo cái nghĩa đen của nó. Kế này nói lên sự mềm dẻo cho mọi chính sách, thứ nhất là chính sách thu phục lòng người, giữ ngườị


33. Khổ nhục kế(Hành hạ thân xác mình để người ta tin)

Khổ nhục kế là hành hạ mình, rồi đem cái thân xác bị hành hạ ấy để làm bằng chứng mà tiếp cận với địch để hoàn thành một âm mưu nào đó.


34. Phao bác dẫn ngọc(Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc)

Phao bác dẫn ngọc nghĩa đen là ném hòn ngói để thu về hòn ngọc. Tức là dùng tiểu vật để đoạt một đại vật, như người đi câu vậỵ


35. Tá thi hoàn hồn(Mượn xác để hồn về)

Tá thi hoàn hồn nghĩa là mượn xác để hồn về.

Kế này chỉ rằng: Sau khi đã thất bại, buộc phải lợi dụng một lực lượng nào đó để khởi lên thi hành trở lại chủ trương của mình.

Tuy nhiên, dùng kế này rất dễ đi vào con đường nguy hiểm, nếu sơ xuất thì tỷ như rước voi về giày mả tổ.

Nếu mượn xác mà mượn ẩu thì chẳng khác gì vác xác chết về nhà.


36. Tẩu kế(Chạy, lùi, thoát thân)

Tẩu kế nghĩa là chạy, lùi, thoát thân.

Tại sao kế sau chót cổ nhân lại đặt là kế chạy?

Lại có câu: Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách. (Ba mươi sáu chước, chạy là hơn hết!)

Bởi vậy kế này liên quan nhiều đến sự thành bại của một công việc lớn.

Bất luận là đánh nhau bằng văn hay bằng võ, không ai là có thể thắng hoàị Trong quá trình chiến đấu bao gồm nhiều kiểu thắng, nhiều kiểu bại, lúc ẩn lúc hiện, trong chớp mắt dồn dập cả trăm ngàn biến chuyển.

Nếu không ứng phó mau lẹ để tránh những cảnh bất lợi, để nắm mau lợi thế mà tiến tới thắng lợi, thì không phải là nhân tàị

Chạy có nhiều phương thức. Bỏ giáp, bỏ vũ khí mà chạy, bỏ đường nhỏ mà chạy tới đường lớn, bỏ đường bộ mà chạy sang đường thủỵ.. các phương thức tuy không giống nhau nhưng cùng hướng chung đến mục đích là tránh tai họa để bảo đảm an toàn, để bảo toàn lực lượng.

36 strategies - Tam thap luc ke

01. Dương đông kích tây

Kế 'Dương đông kích tây' là reo hò giả vờ như thật sự đánh vào phía đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào phía tâỵ

Trong tất cả mọi vấn đề của xã hội, từ chiến trường, thương trường, chính trường cho đến tình trường; nếu muốn điều này nhưng lại giả làm điều kia, nói điều này mà làm điều nọ, ấy là 'Dương đông kích tây' vậỵ

Kế này mờ ảo vô song. Nó rất khó biết, khó đoán, bị đánh bất ngờ. Kế này nhằm chuyển mục tiêu để lừa dối đối phương, khiến cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị.

Có nhiều cách thức để thực hiện kế này, như:

- Tạo tin đồn. - Làm rối tai rối mắt địch. - Buộc đối phương lo nhiều mặt. - Mê hoặc ý chí của địch. - Nghi binh. - Làm phân tán lực lượng đối phương. - Làm yếu lực lượng đối phương, lực lượng phòng vệ địch.

Nguyên tắc của 'Dương đông kích tây' là bí mật và chủ động. Bị động coi như phải chịu sự khiên chế của địch.

Ðiều kỵ khi dùng kế 'Dương đông kích tây' là để lộ cợ

Lộ cơ là mất hết khả năng phòng bị, chuẩn bị. Dù là trên chiến trường, thương trường hay chính trường cũng đều phải giữ bí mật và nắm đươc thế chủ động.



02. Ðiệu hổ li sơn(Dụ hổ ra khỏi rừng) Kế 'Ðiệu hổ li sơn' là nhử, dụ hay khuấy động làm cho con hổ ra khỏi rừng. Kế 'Ðiệu hổ li sơn' có hai lối: Một là nhử hổ ra khỏi rừng để dễ dàng giết hổ. Hai là đuổi hổ đi để dễ bắt giết những loại hồ ly vẫn dựa oai hổ mà hoành hành.


03. Nhất tiễn hạ song điêu(Một mũi tên hạ hai con chim) Kế 'Nhất tiễn song điêu' là dùng một mũi tên bắn chết hai con chim. Ý của mưu kế này là dùng sức lực tối thiểu để đạt đến hiệu quả tối đa


04. Minh tri cố muội(Biết rõ mà làm như không biết) Kế 'Minh tri cố muội' là biết thật rõ chuyện đấy, nhưng làm ra vẻ không biết gì. Với người xưa, đây là một triết lý xử thế rất cao, mục đích lại ẩn trốn tất cả những tiếng thị phi nghi hoặc, nhưng theo nghĩa mưu kế, nó là một thái độ thâm sâụ Cái đức của người quân tử không thể không cho thiên hạ biết, nhưng cái mưu kế của trượng phu không thể không giấu thiên hạ. Tóm lại, biết rất nhiều mà tỏ ra không biết một là kế 'Minh tri cố muội' vậỵ


05. Du long chuyển phượng(Biến rồng thành phượng) Kế 'Du long chuyển phượng' là biến cái này thành cái kia, bên trong là hình rồng đó, nhưng làm cho nó trở thành phượng. Cái kế này rất phổ biến, trong dân gian ta gọi là 'Treo đầu dê, bán thịt chó'.


06.Mỹ nhân kế(Kế dùng gái đẹp) 'Mỹ nhân kế' là dùng gái đẹp để làm xoay chuyển, thay đổi tình thế mà những cái khác không thể thực hiện được. Giai nhân từ ngàn xưa đến nay bao giờ cũng là đề tài chính. Tuy là phái yếu, không thể vác gươm đao mà đánh giặc, nhưng các nàng có thể thắng được bằng đôi mắt biếc và nụ cười

Có những bức thành kiên cố cả mười vạn quân không hạ nổi, nhưng nó có thể bị sụp đổ bởi ánh mắt mỹ nhân, cho nên mới có câu: 'Pháo đại bất như nhục đại, xương đầu nan địch chẩm đầu'. Nghĩa là: Ðạn đồng không bằng đạn thịt, cái súng không địch lại với cái gối Sức mạnh của mỹ nhân đặc biệt là có ảnh hưởng đối với người anh hùng. Trong lịch sử, anh hùng với mỹ nhân nghiễm nhiên thành một thể. Lịch sử nếu không thao túng bởi tay anh hùng thì cũng bị thao túng bởi tay mỹ nhân!


07. Sấn hỏa đả kiếp(Theo lửa mà hành động) Kế 'Sấn hỏa đả kiếp' là lợi dụng lúc loạn để thao túng, lúc tình hình rối ren mà sắp xếp theo ý muốn. Có hai loại 'Sấn hỏa đả kiếp': Một là theo lửa để mà đánh cướp. Hai là chính ta phóng hỏa mà đánh cướp. Theo lửa tức là thừa lúc người ở trong cơn nguy biến mà ta quấy hỗn loạn thêm. Phóng hỏa tức là chính ta gây ra sự hỗn loạn mà thực hiện theo ý muốn của ta Theo lửa hay phóng hỏa cùng đi chung vào một mục đích là đánh địch và đoạt của địch để tạo cơ hội cho ta Theo lửa thì dựa vào thời cơ sẵn có. Phóng hỏa thì tự ta tạo ra thời cơ. Không thể phê phán theo lửa hay phóng hỏa, cái nào hay, cái nào dở, cái nào tốt, cái nào xấu, vì cả hai giống như một sự biến ảo giữa không khí và nước.

Trong sửsách, người ta thấy tay phóng hỏa giỏi là Trương Nghi. Một mình Trương Nghi đã phá tan thế hợp tung bằng cách dối Tề, lừa Triệu, dọa Ngụy, thuyết Yên, bịp Sở. Trương Nghi thật là con người có cái lưỡi bằng lửa thiêu đốt cả sáu nước, dựng thành cơ nghiệp thống nhất cho nhà Tần. Khổng Minh tuy là một nhà chính trị lỗi lạc tài tình, nhưng cái thế của ông ngay từ đầu chỉ là cái thế phải theo lửa để gây vốn: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh chạy đến cùng đường, Khổng Minh đành tính kế nương nhờ Tôn Quyền rồi ăn theo cuộc chiến tranh Nam - Bắc, ăn theo trận Xích Bích để cướp Kinh Châụ 'Sấn hỏa đả kiếp' đòi hỏi một khả năng hành động mau lẹ như con ó bắt mồị Phương ngôn Ả Rập có câu: 'Khi suy nghĩ hãy chậm như con sên, nhưng lúc hành động thì phải lẹ như con ó'. Ðó là đức tính rất cần.


08. Vô trung sinh hữu(Không có mà làm thành có) Kế 'Vô trung sinh hữu' là từ không mà tạo thành có. Thiên hạ không loạn, trật tự không rối thì làm gì có anh hào xuất lộ! Bởi lẽ đó, những anh hào thường được gọi là kẻ 'chọc trời khuấy nước'. Mục đích của khuấy nước là làm rối beng làm rối beng sự việc lên để dễ bề thao túng. Thủ đoạn của khuấy nước là gây tiếng tăm, tung tiếng đồn, gây xáo trộn rồi dựa vào đó mà thủ lợi. Kế 'Vô trung sinh hữu' hình dung là tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào đó, rồi lại nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú con bay về với bầy tu hú.


09.Tiên phát chế nhân(Ra tay trước để chế phục đối phương)

Tiên phát chế nhân là ra tay trước để dành chiếm ưu thế, để đoạt lợi, để bắt lấy sự chiến thắng. Kế "Tiên phát chế nhân" là không nói quá xa, viễn vông, mà phải nhìn vào thực tế gần nhất. Các vụ xảy ra trong lịch sử như: Lý Thế Dân tại Huyền Vũ Môn, Võ Tắc Thiên phế lập Lư Lăng Vương, Ung Chính cướp Bảo Tòa, Từ Hi độc sát Quang Tự, Gia Cát Lượng lấy đất Quang Trung... Tất cả đều là áp dụng thủ đoạn chớp nhoáng không cho địch kịp trở tay, không cho dư luận phản ứng kịp.


10. Ðả thảo kinh xà(Ðập cỏ làm cho rắn sợ) Kế "Ðả thảo kinh xà" là đập vào cỏ, làm động cho rắn sợ.


11. Tá đao sát nhân(Mượn đao để giết người) Kế Tá đao sát nhân là mượn dao để giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù của mình. Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: Sát nhân bất kiến huyết kiến huyết phi anh hùng (Giết người không thấy máu, thấy máu không anh hùng). Giỏi dùng mưu tá đao phải kể đến Tào Tháo trong các vụ giết Nễ Hành và Dương Tụ Trên đời dĩ nhiên chưa có kẻ nào chỉ giết người mà thành anh hùng, nhưng cũng hiếm có tay anh hùng nào không giết ngườị Ðiểm khác nhau không ở có hay không, mà ở chỗ thông minh hay ngu xuẩn. Tào Tháo mượn Lưu Biểu giết Nễ Hành, mượn lòng quân giết Dương Tu rồi lại được làm cái việc mèo già khóc chuột, thật đáng kể là một tay thông minh.



12. Di thi giá họa(Dùng vật gì để vu khống người ta) Kế Di thi giá họa là đem xác chết hay đồ vật gì bỏ vào nhà người khác để giá họạ. Kế này thường được dùng bởi khối óc quỷ quyệt thông minh, tự mình không ra mặt mà làm cho đối phương bị hạị. Như vậy gọi là giết người không thấy máu.


13. Khích tướng kế(Kế chọc giận tướng giặc) Khích tướng kế là kế chọc giận tướng giặc, làm tướng giặc nổi giận. Nổi giận sẽ mất sáng suốt, thiếu suy nghĩ, không tự chủ được con người mình. Mạnh Tử nói: "Nhất nộ nhi an thiên hạ". Trong đời có nhiều sự việc đươc thành tựu bằng một cơn giận và cũng có nhiều việc thất bại bởi một cơn giận. Bởi vậy cái kế khích cũng là một trong những diệu kế, nếu đạt ra thì kiến thiên hạ, cùng thì mang họa vào thân. Khích tướng còn là khơi dậy cái hùng khí của người khác để người ấy làm việc cho tạ. Ðối tượng tốt nhất của kế khích tướng là những người có tính tình bạo tháo hay sẵn sàng phẫn nộ. Tuân Tử bảo rằng: - Lời nói khéo êm như lụa, lời nói ác nhọn như giáo mác. Thuyết là tiến dẫn lời nói, cái nghĩa căn bản của thuyết làm cho người ta nghe theọ Hiệu quả của thuyết rất lớn. Bởi thế mới có câu: Thiên hạ tĩnh, nhất ngôn sử chi động. Thiện hạ động, nhất ngôn sử chi tĩnh. (Thiên hạ đang yên lặng, một lời nói làm náo loạn. Thiên hạ đang náo loạn, một lời nói làm lắng dịu).

Căn bản mưu thuật của thuyết, theo Tuân Tử có bốn điều: Cơ, dũng, trí, biến. Cơ: Là xem thời độ thế, nhân lợi thuận tiện. Dũng: Là quyết đoán nói những điều không ai dám nóị Trí: Là biết rõ sự tình, tâm lý, giải quyết được thắc mắc, chế phục được người. Biến: Là biến hóa, trong các trường hợp bất trắc. Mục đích của thuyết có năm điều: - Làm cho người hiểu rõ - Làm cho người tin tưởng. - Làm cho người đồng tình. - Làm cho người phục. - Làm cho người theọ. Ðạt được năm mục đích trên thì kể như nắm chắc phần thắng trong taỵ


14. Man thiên quá hải(Lợi dụng sương mù để lẩn trốn, giấu trời qua biển) Kế Man thiên quá hải là lợi dụng lúc trời sương mù mà lẩn trốn, vượt qua hay hành động ngay trong lúc sương mù. Man thiên, trời u ám không phải hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi như một quẻ trong Dịch lý đã nóị Man thiên, không thể ngồi đợi nó tới như sương mù do thời tiết thiên nhiên, mà phải tạo ra nó.

Kế Man thiên đem áp dụng thực hiện được cả hai mặt: tiêu cực lẫn tích cực. Tích cực là đem ánh sáng đến cho một tình thế mờ mịt. Tiêu cực là lẩn tránh một tai họa, là lợi dụng cơ hội sơ hở của địch để thoát bí. Quản Trọng khi về giúp Tề Hoàn Công đã phải bày kế ngồi đóng gông trong chiếc tù xạ Làm thế, các bộ hạ của ông đã cùng ông theo công tử Củ chống lại Tề Hoàn Công, Tề Hoàn Công tưởng ông bị bắt mới không giết ông vì tội bội phản. ở trận Xích Bích, Khổng Minh đã giải quyết vấn đề thiếu tên bắn cho các cung thủ bằng cách lấy mười chiếc thuyền lớn chất đầy rơm, đợi lúc trời sương mù, âm thầm đến trại Tào Tháo nổi trống la hét làm như tấn công. Tào sợ ngụy kế, không dám xông ra, chỉ bắn tên như mưa vào các thuyền rơm. Bằng một đêm đánh trống reo hò, không chết một người, Khổng Minh đã lấy được của Tào Tháo cả trăm ngàn mũi tên.


15. Ám độ trần sương(Ði con đường mà không ai nghĩ đến) Kế Ám độ trần sương là bí mật đưa quân qua con đường mà không ai nghĩ rằng ta sẽ đi quạ Kế này áp dụng giữa lúc hai bên đang đấu tranh, chiến đấu với nhaụ

Mỗi bên đều ra sức giấu mục tiêu thật của mình rồi đưa ra mục tiêu giả mà lừa đối phương. Ðây là công việc rất phức tạp, có một quá trình khúc triết. Như "Tôn Tử Binh Pháp" viết: - Việc binh là trá ngụy, có thể mà làm ra vẻ không có thể, dùng đấy mà tỏ ra không dùng, gần giả làm như xa, xa giả làm như gần. Lấy lợi mà dụ, gây rối mà đuổi, thấy khỏe thì tránh. Ðầu tiên là làm mọi cách giảm nhược lực đối phương, sau rồi mới tiến hành dự định. Muốn dụng kế này phải là người có tầm nhìn xa hiểu rộng và một khối óc tuyệt vờị


16. Phản khách vi chủ(Ðổi vị khách thành vị chủ) Kế Phản khách vi chủ là đổi địa vị khách thành địa vị chủ. Phản khách vi chủ là trong đấu tranh đang ở vào thế bị động nên phải tìm kế hoạch đến chủ động, khách vốn là địa vị bị chi phối, mọi việc đều do chủ đặt định sắp xếp. Phản khách vi chủ là nguyên tắc thường dùng trong đấu tranh. Có chủ động mới khống chế được cục diện. Không có chủ động, không thể thắng lợị


17. Kim thiền thoát xác(Ve sầu lột xác) Kim thiền thoát xác: là con ve sầu vàng lột xác.

Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình tượng để lừa dối, che mắt đối phương, đặng đào tẩu chờ một cơ hội khác. Kế Kim thiền thoát xác có một phạm vị rất rộng rãi và phổ biến, bất cứ ai ở hoàn cảnh nào cũng có thể sử dụng được.


18. Không thành kế(Kế bỏ trống cửa thành) Không thành kế là kế bỏ thành trống, thành bỏ ngỏ. Kế này có hai loại: - Một là lúc tình thế cực khẩn cấp, nguy hiểm như treo trên sợi tóc, buộc phải dùng nghi binh để lừa dối đối phương mà dựa vào đó để trốn thoát. - Hai là rút lui với đầy đủ kế hoạch dụ cho địch quân thâm nhập rồi mới bao vây tiêu diệt. Không thành kế thực ra là một cách tạo nghi âm cho đối phương, mục đích là không cho đối phương sớm có một quyết định.

Nguon: Internet